Cuối thập niên 1970 và trong suốt thập niên 1980, Việt Nam phải gồng mình bảo vệ biên giới ở cả hai đầu tổ quốc. Ở hoàn cảnh khó khăn này, Liên Xô đã giúp đỡ Việt Nam trên nhiều phương diện, trong đó, không thể không kể tới sự viện trợ vũ khí rất đáng kể cho cả ba lực lượng hải - lục - không quân.

xe-tang-t55

Xe tăng chủ lực T-55 là biến thể cải tiến của xe tăng T-54 được sản xuất ở Liên Xô từ 1958-1963. Xe có trọng lượng 36 tấn, kíp lái 4 người, trang bị pháo chính D-10T cỡ 100mm, đại liên phòng không DShK 12,7mm và đại liên đồng trục PKT 7,62mm. So với T-54, những thay đổi quan trọng nhất của T-55 là xe có khả năng chống vũ khí hạt nhân, sinh học và hóa học (NBC), cơ số đạn pháo được tăng từ 34 lên 43 viên và đại liên cho lái xe được loại bỏ.

xe-tang-T62
Xe tăng chủ lực T-62 được sản xuất ở Liên Xô từ 1961-1975. Xe có trọng lượng 40 tấn, kíp lái 4 người, trang bị pháo chính U-5TS cỡ 115mm với cơ số đạn 40 viên, đại liên phòng không DShK 12,7mm và đại liên đồng trục PKT 7,62mm. Mặc dù ra đời sau nhưng T-62 không thực sự có nhiều điểm vượt trội so với dòng T-54/55, thay đổi đáng kể nhất ở các phiên bản về sau là pháo nòng trơn 115mm có uy lực lớn hơn và khả năng bắn tên lửa chống tăng có điều khiển (ATGM) qua nòng.

BMP1
Xe chiến đấu bộ binh BMP-1 được thiết kế từ 1961-1965 và sản xuất ở Liên Xô từ 1966-1982. Xe có khả năng lội nước với trọng lượng 13,2 tấn, kíp lái 3 người và có thể chở theo một tiểu đội bộ binh. Hỏa lực của BMP-1 bao gồm pháo bán tự động 2A28 cỡ 73mm với cơ số đạn 40 viên, bệ phóng tên lửa chống tăng có điều khiển 9M14 Malyutka với cơ số đạn 4 quả và đại liên đồng trục PKT 7,62mm. Trong năm 1979, Liên Xô đã viện trợ 3 đợt với 111 xe BMP-1 trang bị cho sư đoàn bộ binh cơ giới đầu tiên của quân đội nhân dân Việt Nam. Trong các năm tiếp theo hàng trăm xe khác tiếp tục được chuyển giao để xây dựng các đơn vị bộ binh cơ giới khác. Trong ảnh là hai xe chiến đấu BMP-1 tham gia duyệt binh trên quảng trường Ba Đình.

BMP2
Xe chiến đấu bộ binh BMP-2 là thế hệ thứ hai được phát triển trên cơ sở BMP-1 và đưa vào sử dụng từ cuối thập niên 1970. Tương tự BMP-1, BMP-2 có khả năng lội nước với trọng lượng 14,3 tấn, kíp lái 3 người và có thể chở theo một tiểu đội bộ binh. Hỏa lực trên xe gồm pháo tự động 2A42 cỡ 30mm với cơ số đạn 500 viên, bệ phóng tên lửa chống tăng có điều khiển 9K111 Fagot (phiên bản dành cho nước ngoài) và đại liên đồng trục PKT 7,62mm. Việt Nam được viện trợ một số BMP-2 trong thập niên 1980, trang bị cho một số đơn vị bộ binh cơ giới.

BRDM2
Xe bọc thép trinh sát BRDM-2 do Liên Xô thiết kế và sản xuất hàng loạt từ 1962-1989. Xe được bọc thép từ 2-14mm, nặng 7,7 tấn, có khả năng lội nước, biên chế kíp lái 4 người, trang bị vũ khí gồm đại liên KPVT 14,5mm và PKT 7,62mm. Khi sang Việt Nam, BRDM-2 được trang bị cho các đơn vị cảnh vệ hoặc trinh sát của bộ binh cơ giới, pháo binh, phòng hóa…

BTR 152
Xe bọc thép chở quân BTR-152 được thiết kế từ 1946-1949 và sản xuất ở Liên Xô từ 1950-1962 dựa trên cơ sở khung gầm xe tải ZiS-151 được bọc thép từ 4-15mm. Xe có trọng lượng 9,91 tấn, trang bị đại liên DShK 12,7mm hoặc SGMB 7,62mm, kíp lái 2 người và có thể chở theo 2 tiểu đội bộ binh. Việt Nam được Liên Xô viện trợ số lượng lớn BTR-152 với đợt đầu gồm 100 xe biên chế cho Sư đoàn 308 Quân đoàn 1 đầu năm 1979. Một số được Việt Nam nghiên cứu cải tiến thêm như gắn đại liên phòng không KPV 14,5mm, thay động cơ và hộp số mới, lắp thêm tấm giáp, đèn và kính quan sát để thuận tiện chiến đấu trên nhiều địa hình…

SU85
Pháo chống tăng tự hành SU-85 được sản xuất từ 1943 và được Hồng quân Liên Xô sử dụng rộng rãi trong Chiến tranh Vệ quốc. SU-85 thiết kế dựa trên khung gầm cơ sở của xe tăng T-34, trọng lượng chiến đấu 29,6 tấn, kíp lái 4 người và trang bị pháo chính D-5T cỡ 85mm với cơ số đạn 48 viên. Ảnh minh họa.

phao-SU-100
Pháo chống tăng tự hành SU-100 được sản xuất từ cuối 1944 để thay thế cho vai trò của SU-85. SU-100 cũng dựa trên khung gầm cơ sở của xe tăng T-34, trọng lượng chiến đấu 31,6 tấn, kíp lái 4 người và trang bị pháo chính D-10S cỡ 100mm với cơ số đạn 60 viên. Năm 1979, một số lượng lớn SU-85 và SU-100 được Liên Xô viện trợ cho Việt Nam.


Lựu pháo tự hành 2S1 Gvozdika 122mm là phiên bản cơ giới hóa của pháo lựu D30 122mm đặt trên khung xe cơ sở MT-LB, được đưa vào biên chế quân đội Liên Xô đầu thập niên 1970. 2S1 có trọng lượng chiến đấu 16 tấn và kíp xe 4 người, cơ số đạn khoảng 30-40 viên. Trong thập niên 1980, một số 2S1 được chuyển giao cho Việt Nam, biên chế cho các đơn vị pháo binh thuộc bộ binh cơ giới và mang định danh “SU-122”.

phao-2S3
Lựu pháo tự hành 2S3 Akatsiya 152mm là phiên bản cơ giới hóa của pháo D22 152mm đặt trên khung xe cơ sở GM-123/124, được đưa vào biên chế quân đội Liên Xô đầu thập niên 1970. 2S3 có trọng lượng chiến đấu 28 tấn và kíp xe 4 người, cơ số đạn tối đa 46 viên và còn được trang bị đại liên PKT 7,62mm. Cuối thập niên 1980, một số 2S3 được chuyển giao cho Việt Nam, biên chế cho một vài đơn vị pháo binh cơ giới và mang định danh “SU-152”.

Phao-phan-luc-bm13
Pháo phản lực bắn loạt BM-13 Katyusha được sản xuất từ năm 1939 và là một trong những biểu tượng của Hồng quân Liên Xô trong cuộc chiến chống phát xít Đức. BM-13 được trang bị dàn phóng đặt trên khung xe tải có khả năng mang 16 đạn phản lực cỡ 132mm với tầm bắn 8-12 km. Sau 1979, Việt Nam được viện trợ nhiều hệ thống BM-13, trang bị cho một số đơn vị pháo binh hoặc sư đoàn bộ binh tuyến 1 và đã sử dụng trong nhiều trận chiến đấu trên chiến trường K hoặc biên giới phía bắc. Ảnh minh họa

phao-phan-luc-ban-hang-loat
Pháo phản lực bắn loạt BM-21 Grad được sản xuất và đưa vào biên chế quân đội Liên Xô từ năm 1963. BM-21 được trang bị dàn phóng 40 ống cỡ 122mm đặt trên khung xe Ural-4320 6x6 với tầm bắn 15-20 km tùy loại đạn. Từ sau năm 1979, BM-21 được Liên Xô viện trợ với số lượng lớn cho Việt Nam, trang bị cho các đơn vị pháo binh cấp quân khu, quân đoàn hoặc trực thuộc Bộ Tư lệnh Pháo binh với định danh “H78”.

Hướng dẫn chăm sóc cây

Bạn có thể thích

Ant Green
ĐĂNG NHẬP
Nhận nhiều ưu đãi hơn